Hình thái vi khuẩnVibrio parahaemolyticus
Vibrio parahaemolyticus được cho là ký sinh trên rất nhiều đối tượng thủy sinh vật như cua, tôm, hàu, ốc, kể cả ký sinh trùng...chúng cũng bùng phát theo các điều kiện sau:
+ Khi tảo tàn (vì tảo chết là nguồn hữu cơ tốt cho vi khuẩn này).
+ Khi nguồn hữu cơ trong ao cao.
+ Khi độ mặn cao.
+ Khi pH cao.
+ Khi nhiệt độ cao.
+ Khi ao nuôi có nhiều ốc, hàu và ký sinh trùng.
Theo tài liệu của FAO (2011) thì loài Vibrio parahaemolyticus có các khoảng chịu đựng cũng như các khoảng tối ưu cho sự phát triển như sau:
YẾU TỐ
|
KHOẢNG TỐI ƯU
|
KHOẢNG CHỊU ĐỰNG
|
Nhiệt độ (oC)
|
37
|
5 - 43
|
Độ mặn (‰)
|
15 - 30
|
5 - 100
|
pH
|
7,8 - 8,6
|
4,8 - 11
|
Hoạt lực sinh học của nước
|
0,981
|
0,904 - 0,996
|
Điều kiện sống
|
Hiếu khí
|
Kị khí đến hiếu khí
|
Noriaki Akazawa đã thống kê 80 ao nuôi nhiễm và không nhiễm EMS trong cùng thời điểm nuôi cho thấy chất lượng nước khác nhau có liên quan đến EMS. Tác giả sau đó thực hiện thí nghiệm trong các bể kính có kiểm soát các yếu khác nhau chất lượng nước với kết quả cho thấy ở pH thấp (về gần 7) có tốc độ lây nhiễm EMS chậm hơn so với ở pH cao (8,5 đến 8,8).
Cơ chế gây bệnh EMS
Trong cơ chế này Vibrio parahaemolyticus chỉ thực sự có được độc lực khi:
- Tích hợp được với phage tương thích.
- Tạo được các colonies có lớp biofilm bao bọc và và sinh được độc tố (toxine).
Và cuối cùng tôm chết là do độc tố vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus tiết ra làm rối loạn chức năng gan tụy và hoại tử mô gan tụy.
Chính cơ chế này giải thích lý do tại sao khó phòng bệnh và việc điều trị bằng kháng sinh không mang lại hiệu quả mong muốn.
3/ DẤU HIỆU BỆNH
a/ Trên cả đàn tôm:
- Giai đoạn đầu các triệu chứng bệnh thường không rõ ràng.
- Tôm chậm lớn và chết ở đáy ao.
- Tiếp theo tôm bệnh có hiện tượng vỏ mềm và biến màu.
- Tôm bị bệnh thường lờ đờ, nơi tấp mé, quay đảo trên mặt nước, giảm ăn và chết sau đó.
- Tôm có thể chết rất nhanh sau khi phát hiện bệnh 2-3 ngày.
- Nhiều trường hợp ghi nhận tôm ngưng chết khi ngưng cho ăn và sau đó chết rất nhanh khi cho ăn trở lại
b/ Trên cá thể tôm bệnh
- Gan tôm bệnh thường gặp có nhiều trạng thái khác nhau như:
+ Sưng to, mềm nhũn.
+ Biến màu.
+ Nhiều trường hợp gan bị teo nhỏ và dai.
+ Vỏ mềm, đục cơ.
- Giải phẩu mô học thường phát hiện:
+ Đốm đen trên gan.
+ Tế bào gan bị hoại tử.
+ Lượng chất béo dự trữ trong gan hầu như không còn.
+ Mẫu gan tụy bị bội nhiễm ở các mức độ khác nhau.
+ Kiểm tra PCR không thấy virus.
Gan tụy đục, chết nhiều, có thể phát sáng
Khối gan tụy nhạt màu, nhỏ
So sánh gan tụy và ruột giữa tôm khỏe (A) và tôm bệnh (B)
4/ GIẢI PHÁP
a/ Biện pháp chung: rất khó trị bệnh vì tôm chết do độc tố.
- Điều chỉnh môi trường nuôi: pH: 7.5, kiềm: 100, tăng oxy.
- Xử lý môi trường nuôi.
- Giảm lượng thức ăn: bỏ đói 2 ngày, tăng lượng thức ăn dần lên cho dạt 80% sau 10 ngày.
- Bổ sung vào thức ăn vitamine, khoáng cần thiết cho tôm.
- Dùng enzyme kich thích miễn dịch (tên thương phẩm IMMUNOSAFE)+ kháng sinh để thanh toán mầm bệnh.
- Phục hồi ngay trạng thái ao nuôi với vi sinh vật có lợi.
- Tôm đã giảm bệnh nên bổ sung thêm Calci trong thức ăn.
b/ Biện pháp phòng ngừa:
+ Đối với tôm giống:
- Chọn đàn tôm mẹ sạch bệnh để ngăn cản quá trình lây nhiễm bệnh từ tôm mẹ sang tôm con.
- Không nên nhốt chung tôm mẹ từ các nguồn khác nhau vào một dụng cụ để tránh sự lây lan mầm bệnh từ con này sang con khác.
- Không nên ương ấp mật độ quá dày, Rửa nauplius (ấu trùng tôm), hay rửa trứng bằng Formol 100 - 200ppm trong 30 giây đến 1 phút hoặc Iodine 1 - 2ppm trong 1 - 2 phút.
- Nguồn nước nên được xử lý bằng các phương pháp khác nhau như: phương pháp cơ học (lọc), phương pháp hóa học (xử lý bằng thuốc sát trùng), phương pháp lí học (sát trùng bằng đèn cực tím), phương pháp sinh học, sinh thái để tiêu diệt và kìm hãm tác nhân gây bệnh.
+ Đối với tôm nuôi thương phẩm:
- Tẩy ao cẩn thận trước một chu kỳ nuôi: Vét hết chất thải của đợt sản xuất trước, phơi nắng đáy ao (nếu có thể), sát trùng đáy ao bằng vôi và hóa chất để tiêu diệt mầm bệnh tồn tại ở đáy ao. Cần có ao hệ thống ao chứa, lắng và nước được lọc kỹ khi đưa vào ao.
- Lựa chọn con giống khỏe mạnh, đã qua kiểm dịch, áp dụng biện pháp sốc Formol 100 - 200ppm, trong 30 giây đến 1 phút, để loại bỏ bớt những con mang mầm bệnh, con yếu trước khi thả giống.
- Không nên nuôi tôm với mật độ quá cao, không sử dụng kháng sinh và chất cấm trong nuôi tôm. Sử dụng các chế phẩm sinh học, men vi sinh để tăng sinh khối sinh vật tự nhiên có lợi trong ao tôm.
- Các loại thức ăn tổng hợp và tự chế biến cần được bảo quản tốt, tránh mốc, vón và nhiễm khuẩn. Bởi nấm mốc trong thức ăn tổng hợp hay trong nguyên liệu để sản xuất thức ăn có thể sinh ra độc tố (thường là Aflatoxin) gây hoại tử gan nghiêm trọng ở động vật thủy sản nuôi nói chung và tôm nuôi nói riêng.
Vũ Ngọc Lan - Phòng Dịch tễ (Sưu tầm)