Trên thị trường tồn tại nhiều chất sát trùng nhưng chỉ có rất ít nghiên cứu để so sánh hiệu quả của những chất sát trùng đối với virus cúm gia cầm H5N1. M.A.Shahid và đồng nghiệp ở Viện Nghiên Cứu Gia Cầm tại Rawalpin đã so sánh hiệu quả của nhiều tác nhân hoá học và vật lý sử dụng trong việc chống lại virus địa phương H5N1.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của các tác nhân vật lý hoá học lên khả năng gây nhiểm của virus cúm gia cầm độc lực cao tại địa phương, những virus sử dụng trong nghiên cứu được phân lập từ ổ dịch năm 2006.
Virus H5N1 có chuẩn độ 108.3 ELD50/ml được trộn với peptone tiệt trùng để có độ pha loãng cuối là 4HA, sau đó được cho tiếp xúc với các yếu tố vật lý (nhiệt độ, pH, và tia tử ngoại), và yếu tố hoá học (formalin, phenol crystals, iodine crystals, CID 20, Virkon®-S, zeptin 10%, Kepcide 300, Kepcide 400, Lifebuoy, Surf Excel và caustic soda).
Dịch amnio-allantoic fluid (AAF) thu từ trứng gia cầm có phôi được câý vơí virus (đã xử lý) H5N1 (0,2ml/trứng), sau đó các phương pháp kiểm tra huyết thanh học Ha và Hi được sử dụng.
Virus H5N1 mất khả năng gây nhiểm sau 30 phút ở 56oC, sau 1 ngày ở 28oC, nhưng vẫn duy trì khả năng gây nhiểm hơn 100 ngày ở 4°C.
Trong điều kiện acid (pH 1 and 3) và kiềm (pH 11 and 13) virus mất tính gây nhiểm sau 6 giờ tiếp xúc. Mặc dù vậy, virus vẫn còn khả năng gây nhiểm ở pH5 (trong 18 giờ) và ở pH7 và pH9 trong hơn 24giờ.
Tia UV cho thấy không có hiệu quả trong việc vô hoạt hoàn toàn virus ngay cả sau 60 phút.
Xà phòng (Lifebuoy), thuốc tẩy (Surf Excel) và kiềm (caustic soda) phá huỹ tính gây nhiểm của virus sau 5 phút ở 0,1; 0,2 và 0,3% độ pha loãng.
Còn tất cả các chất sát trùng thương mại khác vô hoạt virus ở nồng độ khuyến cáo.
Các tác giả đề nghị rằng, kết quả của nghiên cứu có thể hữu ích trong việc thực hiện các biện pháp an toàn sinh học ở trại và cơ sở ấp trứng trong điều kiện đe doạ của dịch bệnh.
Nguyễn Tân Lang –Trạm CĐXN
(Theo nguồn tài liệu tạp chí Virology Journal, năm 2009)