Trong kế hoạch hành động quốc gia về phòng chống kháng thuốc từ năm 2013 đến năm 2020, có 6 nhóm hoạt động nhằm phòng chống kháng thuốc được Bộ Y tế đề cập, trong đó có giải pháp sử dụng kháng sinh hợp lý trong trồng trọt, chăn nuôi; kiểm soát nhiễm khuẩn; sử dụng thuốc hợp lý; giám sát quốc gia về sử dụng kháng sinh và kháng thuốC.
Trong chăn nuôi, để hạn chế rủi ro với các nguy cơ dịch bệnh, người chăn nuôi có thói quen dùng nhiều loại kháng sinh, thuốc kích thích bao gồm cả các hoạt chất và thuốc thú y ngoài danh mục lưu hành được sử dụng nhằm kích thích tăng trưởng hoặc phòng và điều trị cho vật nuôi. Nếu không được kiểm soát tốt, việc sử dụng các loại hoạt chất, thuốc thú y trong chăn nuôi sẽ gây ra một nguy cơ rủi ro lớn cho môi trường và sức khỏe con người như hiện tượng kháng thuốc, kháng kháng sinh ở người, do tồn dư kháng sinh trong sản phẩm có nguồn gốc động vật.
Trong chăn nuôi công nghiệp có hiện tượng lạm dụng quá nhiều các loại kháng sinh tổng hợp, số hộ sử dụng thuốc kháng sinh có từ 3 – 6 hoạt chất chiếm 27% số trang trại nuôi heo thịt, 24% trang trại nuôi heo con và 10% số trang trại nuôi gà thịt (Vũ Đình Tôn và cộng sự 2010). Việc sử dụng kháng sinh và hóa chất thú y chủ yếu dựa vào kinh nghiệm dẫn tới người chăn nuôi thường tự ý tăng liều và liệu trình điều trị. Sử dụng kháng sinh theo triệu chứng bệnh (44%), theo chỉ định của thú ý viên là 33%, sử dụng kháng sinh theo khuyến cáo của nhà sản xuất chiếm 17% và chỉ 6% trang trại sử dụng kháng sinh theo kết quả thử nghiệm kháng sinh đồ (Nguyễn Quốc Ân, 2009).
Vì vậy, cần tăng cường sử dụng kháng sinh hợp lý, an toàn trong trồng trọt và chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản...và tìm kiếm những giải pháp để thay thế dần thói quen sử dụng kháng sinh của người chăn nuôi. Một trong những giải pháp là sử dụng probiotic bổ sung vào khẩu phần thức ăn nhằm tạo sự cần bằng cho hệ vi sinh vật đường ruột, tăng khả năng tiêu hóa thức ăn, tăng cường sức đề kháng…
Trong đường ruột của vật nuôi có hàng trăm ngàn tỷ vi khuẩn, số lượng vi khuẩn lớn hơn 10 lần số lượng tế bào cơ thể. Vi khuẩn trong đường ruột được xếp thành ba nhóm:
-Nhóm 1 là nhóm vi khuẩn có ích chiếm tỷ lệ trên 90%, gồm phần lớn là các vi khuẩn kỵ khí (Clostridia, Bifidobacteria, Lactobacilli, Bacteroides, Eubacteria), sản sinh acid lactic và các acid béo mạch ngắn.
-Nhóm 2 chiếm khoảng 1% và gồm chủ yếu là giống Enterococci và E.coli.
-Nhóm 3 chiếm tỷ lệ dưới 0,01% và gồm chủ yếu là những giống vi khuẩn gây bệnh như Proteus, Staphylococci và Pseudomonas.
Ở điều kiện sinh lý bình thường, ba nhóm vi khuẩn trên chung sống theo tỷ lệ “hoà hoãn” là >90: 1: 0,01 (thuật ngữ chuyên môn gọi tình trạng này là eubiosis). Nếu số lượng vi khuẩn có hại tăng lên, tỷ lệ ”hoà hoãn” bị phá vỡ (gọi là dysbiosis), dẫn đến rối loạn tiêu hoá, suy giảm khả năng miễn dịch ruột, suy giảm sức kháng bệnh của toàn cơ thể.
Vi sinh vật có lợi luôn có mặt trong đường tiêu hóa của người động vật
Số lượng vi khuẩn có lợi thường bị suy giảm do kháng sinh, hoá chất và nấm mốc độc hại có trong thức ăn, cũng như do các bất lợi về môi trường như nóng ẩm, khí thải chuồng nuôi... Nếu tìm cách ”gieo lại” vi khuẩn có lợi thì duy trì được mối quan hệ cân bằng giữa vi khuẩn có lợi và có hại, nhờ đó ngăn ngừa được rối loạn tiêu hoá, bảo vệ được niêm mạc ruột và hệ miễn dịch ruột, giúp heo khoẻ mạnh, tiêu hoá hấp thu thức ăn tốt, tăng trưởng nhanh. Để “gieo lại” vi khuẩn có lợi, người ta dùng chế phẩm probiotic.
Probiotic là thức ăn bổ sung các vi sinh vật có ích còn sống, những vi sinh vật này có ảnh hưởng có lợi cho con vật chủ do cải thiện được trạng thái cân bằng của vi sinh trong đường ruột.
* Các nhóm vi sinh của probiotic
+ Vi khuẩn lactic: Vi khuẩn này chiếm vị trí quan trọng trong nhóm vi khuẩn đường tiêu hoá của người và động vật, chúng có khả năng lên men một số loại đường để hình thành acid lactic. Vi khuẩn lactic quan trọng trong probiotic thuộc tộc Lactobacilli, Pediococci, Bifidobacteria và Enterococci.
+ Bào tử Bacillus: Bào tử Bacillus cũng có khả năng kích thích hệ miễn dịch của ruột. Các bào tử phải được nẩy mầm ở phần trên của ruột để thể hiện tất cả các hoạt tính của chúng.
+ Nấm men: Nấm men sử dụng trong dinh dưỡng động vật chủ yếu là các dòng của chủng Saccharomyces cerevisiae.
* Chức năng của probiotic
Các nghiên cứu cho thấy vi khuẩn probiotic có chức năng kháng khuẩn; chức năng hàng rào; chức năng miễn dịch và cũng là những tác nhân có tính chất kháng lại dị ứng. Các chức năng này không chỉ thông qua bản thân vi khuẩn mà còn thông qua DNA, chất tiết và vách tế bào vi khuẩn probiotic.
+ Chức năng kháng khuẩn thực hiện theo các cơ chế sau: Làm biến đổi hệ vi sinh đường ruột, giảm vi khuẩn bệnh; sản sinh các chất kháng khuẩn như acid béo mạch ngắn, acid lactic, bacteriocins, hydrogen peroxide, pyroglutamate…có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của cả vi khuẩn gram âm và dương; Tranh giành sự bám dính vào niêm ruột với vi khuẩn bệnh hoặc phong toả các thụ quan (receptor) của niêm mạc ruột, nhờ vậy ngăn chặn vi khuẩn bệnh xâm lấn vào bên trong; Tranh giành chất dinh dưỡng với vi khuẩn gây bệnh.
+ Chức năng hàng rào thể hiện ở chỗ probiotic kích thích sự gắn kết chặt chẽ các tế bào biểu mô ruột, giảm các chất tiết gây viêm của vi khuẩn gây bệnh, tăng sản sinh các phân tử bảo vệ như mucin và tăng sự sản sinh enzyme của diềm bàn chải của biểu mô ruột.
+ Chức năng miễn dịch thể hiện ở chỗ probiotic làm giảm sản sinh các chất gây viêm, gây đáp ứng sản sinh kháng thể của hệ miễn dịch ruột để ngăn ngừa bệnh cũng như đáp ứng miễn dịch để ngăn ngừa dị ứng.
Tóm lại, việc sử dụng probiotic trong chăn nuôi có tác dụng duy trì sự cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột, ngăn ngừa rối loạn tiêu hoá, tăng cường năng lực miễn dịch ruột, kích thích tăng trưởng, tăng hiệu quả chuyển hoá thức ăn. Sử dụng probiotic kết hợp với các chất bổ sung khác như prebiotic, acid hữu cơ, thảo dược có thể loại bỏ hoàn toàn kháng sinh bổ sung vào thức ăn.
Tống Thanh Lộc – phòng kiểm dịch